Scholar Hub/Chủ đề/#ô nhiễm nước mặt/
Ô nhiễm nước mặt là gì? Các công bố khoa học về Ô nhiễm nước mặt
Ô nhiễm nước mặt là vấn đề môi trường nghiêm trọng toàn cầu, ảnh hưởng sức khỏe con người, đa dạng sinh học, và kinh tế xã hội. Nguyên nhân chính bao gồm nước thải công nghiệp, sinh hoạt, nông nghiệp, và khai thác. Hậu quả là ảnh hưởng sức khỏe, suy giảm đa dạng sinh học, biến đổi môi trường, và tổn thất kinh tế. Giải pháp cần có quản lý nghiêm ngặt, công nghệ xử lý nước, nông nghiệp bền vững, và giáo dục cộng đồng. Sự phối hợp giữa chính phủ, công nghiệp, và cộng đồng là cần thiết để bảo vệ nguồn nước cho tương lai.
Ô Nhiễm Nước Mặt: Tổng Quan
Ô nhiễm nước mặt là một vấn đề môi trường nghiêm trọng trên toàn cầu, đặc biệt tại những quốc gia có tốc độ phát triển công nghiệp và đô thị hóa nhanh chóng. Nước mặt bao gồm các hệ thống nước như sông, hồ, ao và các lưu vực chứa nước khác. Khi chúng bị ô nhiễm, nó không chỉ ảnh hưởng đến đa dạng sinh học trong các khu vực này mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe con người và các hoạt động kinh tế xã hội.
Nguyên Nhân Của Ô Nhiễm Nước Mặt
Ô nhiễm nước mặt có nhiều nguyên nhân, bao gồm:
- Nước thải công nghiệp: Các cơ sở sản xuất thường thải ra nước chứa hóa chất độc hại, kim loại nặng và các chất gây ô nhiễm khác mà không qua xử lý hoặc xử lý không đầy đủ.
- Nước thải sinh hoạt: Ở nhiều nơi, nước thải từ các khu dân cư không được xử lý triệt để trước khi xả vào các nguồn nước công cộng.
- Nông nghiệp: Sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu hóa học dẫn đến các hóa chất này bị rửa trôi vào hệ thống nước mặt, gây ô nhiễm diện rộng.
- Hoạt động khai thác: Khai thác khoáng sản và các hoạt động xây dựng có thể gây ra sự tích tụ của chất rắn lơ lửng và các kim loại nặng trong nước.
Hậu Quả Của Ô Nhiễm Nước Mặt
Ô nhiễm nước mặt không chỉ đơn thuần ảnh hưởng tới chất lượng nước và đa dạng sinh học, mà còn tác động sâu sắc đến đời sống và sức khỏe con người. Các hậu quả chính bao gồm:
- Ảnh hưởng đến sức khỏe: Việc tiêu thụ và sử dụng nước bị ô nhiễm có thể gây ra các bệnh về tiêu hóa, thần kinh và thậm chí là các bệnh mãn tính lâu dài khác.
- Suy giảm đa dạng sinh học: Các hệ sinh thái nước ngọt trở nên mất cân bằng, ảnh hưởng đến sinh vật thủy sinh và các loài phụ thuộc vào nước để tồn tại.
- Thay đổi môi trường: Các hợp chất hóa học trong nước có thể gây biến đổi hóa học và vật lý trong các hệ sinh thái nước, thay đổi dòng chảy và chất lượng đất.
- Ảnh hưởng kinh tế: Ngành nông nghiệp, công nghiệp, và du lịch có thể chịu tổn thất đáng kể vì nguồn nước bị ô nhiễm.
Giải Pháp Cho Ô Nhiễm Nước Mặt
Việc quản lý và cải thiện chất lượng nước mặt đòi hỏi những nỗ lực phối hợp từ chính phủ, cộng đồng và các ngành công nghiệp. Một số giải pháp bao gồm:
- Tăng cường quản lý và giám sát: Thực hiện các chính sách nghiêm ngặt và giám sát thường xuyên để đảm bảo nước thải công nghiệp và sinh hoạt được xử lý trước khi xả ra môi trường.
- Phát triển công nghệ xử lý nước: Đầu tư vào các công nghệ xử lý nước tiên tiến có khả năng loại bỏ hiệu quả các chất ô nhiễm.
- Khuyến khích thực hành nông nghiệp bền vững: Áp dụng các kỹ thuật canh tác giảm thiểu sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu hóa học.
- Giáo dục cộng đồng: Tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của bảo vệ nguồn nước thông qua các chương trình giáo dục và chiến dịch truyền thông.
Kết Luận
Ô nhiễm nước mặt là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện và bền vững để quản lý và giảm thiểu tác động của nó. Thông qua sự phối hợp chặt chẽ giữa chính phủ, ngành công nghiệp và cộng đồng, chúng ta có thể bảo vệ và duy trì nguồn tài nguyên nước quý báu này cho các thế hệ tương lai.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ô nhiễm nước mặt":
Tác động của ô nhiễm nước rỉ từ bãi rác đến nước mặt và nước ngầm tại Bangladesh: một đánh giá hệ thống và khả năng rủi ro sức khỏe cộng đồng Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 11 Số 6 - 2021
Tóm tắtViệc chôn lấp chất thải rắn tại các bãi rác không được thiết kế đúng quy cách là rất phổ biến ở các nước đang phát triển. Trong số những bất lợi khác nhau của loại hình chôn lấp này, nước rỉ là mối quan tâm chính đối với sức khỏe cộng đồng, là sản phẩm độc hại tạo ra từ bãi rác; và có thể ngấm vào nước ngầm và do đó di chuyển vào nước mặt. Thông qua việc tiến hành đánh giá hệ thống dữ liệu đã công bố, nghiên cứu hiện tại cố gắng so sánh tiềm năng ô nhiễm nước rỉ của bốn bãi rác chính tại Bangladesh, bao gồm Amin Bazar, Matuail, Mogla Bazar và Rowfabad; nằm ở 3 trong số 6 thành phố lớn của Bangladesh và đánh giá tác động của nước rỉ lên các nguồn nước xung quanh cũng như đến sức khỏe con người. Nghiên cứu này, lần đầu tiên tính toán chỉ số ô nhiễm nước rỉ (LPI) cho các địa điểm chôn lấp tại Bangladesh và phát hiện rằng LPI của bãi rác Matuail (19,81) là rất cao, so sánh được với một số bãi rác ô nhiễm ở Ấn Độ và Malaysia. Nồng độ của một số kim loại độc hại tiềm tàng trong nước mặt và nước ngầm xung quanh các bãi rác cao hơn giới hạn tối đa cho phép của Cục Môi trường Bangladesh và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Chỉ số rủi ro sức khỏe con người đối với các kim loại nặng độc hại trong các loại rau và gạo cho thấy tiềm năng rủi ro sức khỏe cao cho Pb, Cd, Ni và Mn. Rủi ro gây ung thư tổng thể cho Ni và Pb được phát hiện rất cao trong các cây ăn được gần những bãi rác đó, gợi ý về nguy cơ gây ung thư do Ni và Pb thông qua việc tiêu thụ những cây này. Tình trạng hiện tại của nước mặt, nước ngầm và sản phẩm nông nghiệp gần các bãi rác tại Bangladesh là rất đáng lo ngại đối với sinh vật và cư dân địa phương.
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG NƯỚC MẶT VÀ TẦN SUẤT KIỂM TRA TRÊN SÔNG TIỀN VÀ SÔNG HẬU, TỈNH AN GIANG, SỬ DỤNG DỮ LIỆU GIÁM SÁT TRONG 10 NĂM Dịch bởi AI TRA VINH UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE; p-ISSN: 2815-6072; e-ISSN: 2815-6099 - - Trang 78-88 - 2020
Nghiên cứu nhằm đánh giá sự biến đổi về chất lượng nước mặt và tần suất giám sát tại ba trạm giám sát liên tục trên sông Tiền (cụm MT1) và sông Hậu (cụm MH1 và MH2) qua giai đoạn 10 năm (2009-2018), với tần suất giám sát 12 lần trong một năm (hàng tháng). Các biến số chất lượng nước bao gồm nhiệt độ (oC), pH, oxy hòa tan (DO, mg/L), chất rắn lơ lửng tổng số (TSS, mg/L), nitrat (N-NO-3, mg/L), orthophosphat (P-PO3 4-, mg/L), nhu cầu oxy hóa học (COD, mg/L), và coliforms (MPN/100 mL). Các thông số chất lượng nước cá nhân đã được đánh giá bằng cách so sánh với Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt (QCVN 08-MT: 2015/BTNMT). Tần suất giám sát được đánh giá bằng phương pháp Phân Tích Nhóm (CA). Kết quả cho thấy nước mặt trên cả sông Tiền và sông Hậu luôn bị ô nhiễm bởi chất rắn lơ lửng, chất hữu cơ, dưỡng chất và vi sinh vật. Phân Tích Nhóm xác định rằng tần suất giám sát nước hiện tại có thể giảm từ 12 lần xuống còn 5 lần mỗi năm, giảm 58% chi phí giám sát. Nghiên cứu tương lai nên tập trung vào đánh giá các thông số chất lượng nước để bao trùm tất cả các đặc tính chất lượng nước trên sông Tiền và sông Hậu. Hợp tác quốc tế với các quốc gia có ảnh hưởng đến dòng sông trước khi đổ vào Việt Nam trong quản lý nước cần được tăng cường để giải quyết vấn đề nước tiếp tục.
#Tỉnh An Giang #phân tích nhóm #coliforms #ô nhiễm #sông Tiền và sông Hậu #chất lượng nước
Ứng dụng GIS để xây dựng bản đồ ô nhiễm nước mặt tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng NinhTóm tắt: Môi trường sống của chúng ta ngày càng bị ô nhiễm nghiêm trọng trong những năm gần đây, do đó đánh giá chất lượng môi trường đang là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm, đặc biệt là ô nhiễm môi trường nước mặt. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm mục đích xây dựng các bản đồ ô nhiễm nước mặt dựa vào 15 mẫu quan trắc tại khu vực thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở ứng dụng công nghệ GIS. Kết quả từ nghiên cứu các thông số thuộc nhóm hóa học (pH, COD, NH4+), nhóm vật lý (TSS) và nhóm vi sinh vật (Coliform) cho thấy, chất lượng nước mặt sông, suối khu vực Cẩm Phả bị ô nhiễm nặng. Tất cả các thông số đều vượt Quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam (QCVN), đặc biệt tại nhiều vị trí quan trắc vượt QCVN khoảng 10 lần như hàm lượng các thông số TSS tại suối Hà Ráng (599 mg/l), NH4+ tại suối Cầu 4 (5,94 mg/l) và COD tại suối Khe Sim (222,3 mg/l) lần lượt vượt QCVN cho phép 12; 11,8 và 7,4 lần. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, GIS là phương pháp hiệu quả trong xây dựng các bản đồ ô nhiễm nước mặt.Từ khóa: GIS, ô nhiễm nước mặt, thành phố Cẩm Phả.
Định lượng ô nhiễm nước mặt tại thành phố Hội An dựa trên dữ liệu viễn thám và mô hình học máy Tình trạng nước mặt tại thành phố Hội An đang phải đối diện với những thách thức về mức độ ô nhiễm trong hơn một thập kỷ qua. Nghiên cứu này giới thiệu tích hợp mô hình học máy với hệ thống suy luận mờ dựa trên mạng thích ứng (ANFIS), kết hợp với dữ liệu viễn thám quang học và radar để ước tính ba thông số chất lượng nước như TSS, COD và BOD. Hiệu suất của mô hình được đánh giá bằng cách sử dụng các tham số bao gồm RMSE, R2, MAE. Các chỉ số dự đoán cung cấp kết quả đáng kể, với RMSE dao động từ 3,52 mg/l đến 4,59 mg/l, R2 dao động từ 0,69-0,82 và MAE dao động từ 2,39 mg/l đến 3,16 mg/l. Kết quả cho thấy, nồng độ của ba thông số đánh giá chất lượng nước cao phân bố ở khu vực Đô thị cổ Hội An, sông Hoài. Phương pháp này có thể sử dụng để đánh giá các thông số chất lượng nước mặt, nhằm giám sát nhanh tình trạng của môi trường nước, cung cấp một phương pháp giám sát chất lượng nước mặt, đây có thể là nền tảng để đưa ra giải pháp bảo vệ và sử dụng nguồn nước sạch ở các thành phố Di sản.
#Ô nhiễm nước mặt #Viễn thám #Chất lượng nước #Mô hình ANFIS #Thành phố Hội An
ƯỚC TÍNH ĐỊNH LƯỢNG RỦI RO Ô NHIỄM NƯỚC MẶT DỰA TRÊN DỮ LIỆU VIỄN THÁM QUANG HỌC VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ĐA TIÊU CHÍ Ô nhiễm nước mặt là một trong những vấn đề môi trường mà các quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt. Khu vực Uông Bí – Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh hiện đang phải đối mặt với những thách thức như vậy. Dữ liệu viễn thám có khả năng cung cấp nhanh những thông tin về chất lượng nước và giám sát nước mặt hiệu quả hơn. Nghiên cứu phân tích liên quan đến: (1) Phân tích sự thay đổi chất lượng nước mặt ở khu vực Uông Bí – Đông Triều giai đoạn 2000-2020; (2) Lựa chọn mô hình ước tính chỉ số đánh giá chất lượng nước từ dữ liệu viễn thám; và (3) Đánh giá định lượng rủi ro ô nhiễm nước mặt tại khu vực nghiên cứu. Kết quả cho thấy, các chỉ số (BOD5, COD, TSS) dự đoán có hệ số R 2 tương đối tốt đều có giá trị trên 0,75. Trong đó, mức độ Rủi ro cao đối với ô nhiễm nước mặt tăng từ 8% năm 2000 lên 16% năm 2020 và tỉ lệ gia tăng của khu vực Rủi ro rất cao lần lượt từ 3% lên 10%. Nghiên cứu này nhấn mạnh việc sử dụng dữ liệu viễn thám đa thời gian kết hợp với số liệu đo đạc hiện trường có thể theo dõi các chỉ số đánh giá chất lượng mặt ở sông suối và ao hồ. Hơn nữa, nghiên cứu hiện tại có thể áp dụng cho các khu vực nước mặt ở quy mô rộng hơn.
#Đông Triều – Uông Bí #viễn thám #ô nhiễm nước mặt #chỉ số chất lượng nước
NGHIÊN CỨU HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP BẢO VỆ CHẤT LƯỢNG NƯỚC MẶT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAIHuyện Xuân Lộc, Đồng Nai có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế xã hội của địa phương, những năm gần đây tốc độ phát triển kinh tế được đẩy nhanh, đi đôi với quá trình phát triển sẽ nảy sinh những tác động tiêu cực, làm ảnh hưởng tới tài nguyên và môi trường tại khu vực. Việc nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm, xác định các nguồn gây ô nhiễm, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế tác động xấu đến nguồn nước mặt huyện Xuân Lộc, Đồng Nai là cần thiết và cấp bách. Dựa trên phương pháp đo đạc, lấy mẫu phân tích hiện trạng môi trường, tính toán chỉ số chất lượng nước, thu thập thông tin từ phiếu điều tra, tính toán tải lượng ô nhiễm các nguồn thải: chăn nuôi heo, cơ sở sản xuất,...Kết quả nghiên cứu cho thấy: Chất lượng nước mặt của huyện Xuân Lộc có dấu hiệu ô nhiễm về hàm lượng chất hữu cơ (BOD5, COD), chất dinh dưỡng (Nitrit, Nitrat, Amôni, Phosphat) và vi sinh (Coliform). Vào mùa khô các thông số ô nhiễm cao hơn so với mùa mưa. Hoạt động chăn nuôi heo là nguồn phát sinh lưu lượng và tải lượng ô nhiễm nhiều nhất và gấp nhiều lần so với các nguồn thải khác. Từ kết quả điều tra, phân tích, bài nghiên cứu đã đưa ra các giải pháp thiết thực nhằm giảm thiểu, ngăn ngừa, hạn chế tác động xấu đối với môi trường nước mặt tại khu vực Xuân Lộc, Đồng Nai.
#Pig raising #water quality #waste source #Dong Nai
Vận chuyển kim loại nặng từ các loại đất bùn đào ở lớp đất bề mặt trong thí nghiệm mô phỏng mưa trong phòng lab Dịch bởi AI Water, Air, and Soil Pollution - Tập 118 - Trang 73-86 - 2000
Kim loại nặng trong các địa điểm thải bùn đào có thể được vận chuyển thông qua dòng chảy bề mặt và thẩm thấu. Trong nghiên cứu này, lượng kim loại từ dòng chảy bề mặt và nước thẩm thấu được xác định dưới điều kiện mưa mô phỏng với độ dốc 19% và cường độ mưa khoảng 40 mm h-1. Các điều kiện này tương ứng với một nửa giá trị trung bình hàng năm của độ xói mòn do mưa dưới điều kiện thời tiết ở Bỉ. Mẫu nước thải bề mặt và nước thẩm thấu đã được phân tích các chất rắn lơ lửng, carbon hòa tan tổng và các kim loại Cd, Cr, Cu, Ni, Pb và Zn. Tỷ lệ dòng chảy và lượng bùn lắng đọng cao nhất ở loại bùn lỏng, được đặc trưng bởi hàm lượng đất sét và chất hữu cơ thấp. Nồng độ kim loại trong nước thải bề mặt và nước thẩm thấu biến động rộng rãi giữa các loại bùn được nghiên cứu và có mối liên hệ với tổng hàm lượng kim loại trong bùn. Trong nước thải bề mặt và nước thẩm thấu từ các loại bùn ô nhiễm, nồng độ kim loại vượt quá mức tham chiếu về chất lượng nước ngầm của Hà Lan một cách rõ rệt. Lượng kim loại flux rất cao được quan sát thấy ở bùn đào đã được oxy hóa gần đây. Vận chuyển kim loại trên mỗi đơn vị diện tích bề mặt thông qua nước thẩm thấu gấp từ hai đến hơn hai mươi lần so với dòng chảy bề mặt.
#kim loại nặng #bùn đào #nước thẩm thấu #mưa mô phỏng #ô nhiễm đất #chất lượng nước ngầm
Ô nhiễm nước mặt và nước ngầm ở nông thôn bởi endosulfan ở những vùng canh tác của Western Cape, Nam Phi Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 2 - Trang 1-15 - 2003
Tại Nam Phi, có rất ít dữ liệu về ô nhiễm môi trường của các nguồn nước nông thôn do hóa chất nông nghiệp. Nghiên cứu này đã điều tra ô nhiễm thuốc trừ sâu ở nước ngầm và nước mặt tại ba khu vực nông nghiệp chuyên canh ở Western Cape: thung lũng Hex River, Grabouw và Piketberg. Việc giám sát endosulfan và chlorpyrifos ở mức thấp đã được thực hiện, cũng như việc sàng lọc các thuốc trừ sâu khác. Giới hạn xác định cho endosulfan là 0,1 μg/L. Endosulfan được phát hiện là phổ biến trong nước ngầm, nước mặt và nước uống. Mức độ ô nhiễm chủ yếu ở mức thấp, nhưng thường xuyên vượt quá tiêu chuẩn nước uống của châu Âu là 0,1 μg/L. Hai địa điểm ô nhiễm nhất là một cống ngầm ở thung lũng Hex River và một hồ chứa ở Grabouw, với mức trung bình endosulfan lần lượt là 0,83 ± 1,0 μg/L (n = 21) và 3,16 ± 3,5 μg/L (n = 13). Các thuốc trừ sâu khác như chlorpyrifos, azinphos-methyl, fenarimol, iprodione, deltamethrin, penconazole và prothiofos cũng đã được phát hiện. Endosulfan được phát hiện nhiều nhất ở Grabouw (69%), tiếp theo là Hex River (46%) và Piketberg (39%). Tần suất phát hiện cao hơn ở nước mặt (47%) so với nước ngầm (32%) và trùng hợp với việc tưới nước, và ở mức độ thấp hơn, là việc phun thuốc và những cơn mưa kích hoạt. Tổng lượng endosulfan tiêu thụ qua đường ăn uống được tính toán từ mức độ tìm thấy trong nước uống không vượt quá tiêu chí của Cuộc họp chung WHO/FAO về dư lượng thuốc trừ sâu (JMPR). Nghiên cứu đã chỉ ra sự cần thiết phải giám sát ô nhiễm thuốc trừ sâu ở nước mặt và nước ngầm, cũng như phát triển các tiêu chuẩn chất lượng nước uống cho các thuốc trừ sâu cụ thể ở Nam Phi.
#Ô nhiễm nước #thuốc trừ sâu #endosulfan #nước ngầm #nước mặt #Nam Phi
TỈ LỆ NHIỄM ẤU TRÙNG SÁN LÁ SONG CHỦ CERCARIAE TRÊN ỐC TRONG KÊNH CẤP NƯỚC TRỰC TIẾP CHO AO NUÔI CÁ Ở HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, VIỆT NAM Nghiên cứu tỉ lệ nhiễm ấu trùng sán lá song chủ (giai đoạn cercariae) trên ốc thu trong 16 kênh cấp nước trực tiếp cho ao nuôi cá ở huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh được thực hiện vào tháng 3/2023 (mùa khô) và tháng 8/2023 (mùa mưa). Ốc được thu bằng cào có kích thước 25 cm x 25 cm và cào sâu 10cm, cách bờ 1,0m. Tổng số có 3 điểm thu mẫu được thực hiện tại mỗi kênh, các điểm thu mẫu cách nhau 100m. Bốn nhóm cercariae đã tìm được trên ốc và phân loại dựa theo đặc điểm hình thái gồm có Xiphidio, Echinostome, Transversotrema và Furcocercous cercariae. Tỉ lệ nhiễm trên bốn loài ốc là Indoplanorbis exustus (10,4%), Melanoides tuberculata (6,7%), Bithynia siamensis (5,3%) và Lymnaea viridis (3,3%). Năm loài ốc còn lại không bị nhiễm là Pomacea canaliculata, Pila ampullacea, Thiara scabra, Filopaludina sumatrensis và Filopaludina martensi martensi. Cần tiếp tục nghiên cứu tỉ lệ nhiễm cercariae trên ốc trong kênh cấp nước trực tiếp cho ao nuôi cá ở mức độ chu kì năm ở huyện Bình Chánh, nhằm xác định tính mùa vụ trong tỉ lệ nhiễm cercariae trên ốc để kiểm soát, góp phần phát triển nuôi trồng thủy sản sạch.
#huyện Bình Chánh #kênh #cercariae #ao cá #loài ốc #Việt Nam
Nghiên cứu việc sử dụng Nematode Caenorhabditis elegans để thử nghiệm độc tính đối với nước thải sinh hoạt và công nghiệp Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 33 - Trang 252-260 - 1997
Nghiên cứu điều tra này đánh giá sự dễ dàng và tính hữu ích của nematode Caenorhabditis elegans trong việc xác định các thành phần góp phần gây độc tính của nước thải trong hệ thống nhà máy xử lý nước thải công nghiệp và đô thị (WWTP). Nhiều loại hình công nghiệp khác nhau, bao gồm sản xuất sợi thủy tinh, đóng gói giấy và nhuộm sợi, thải nước thải vào nhà máy xử lý nước thải đô thị, sau đó nước thải này được xả vào một con suối địa phương. Một mục tiêu chính của nghiên cứu này là xác định các nguồn gây độc chính trong hệ thống thông qua một thử nghiệm độc tính với nematode. Các mẫu nước tổng hợp đã được thu thập định kỳ trong suốt mười tháng tại năm điểm chiến lược trong hệ thống: (1) tại điểm xả thải tại mỗi một trong ba cơ sở công nghiệp, (2) tại nước thải công nghiệp kết hợp của nhà máy xử lý nước thải, (3) tại nước thải của WWTP, (4) phía thượng nguồn của điểm xả thải WWTP, và (5) phía hạ nguồn của điểm xả thải WWTP. Các mẫu đã được phân tích về hóa học nước cơ bản và mỗi mẫu đã được thử nghiệm độ độc toàn bộ nước thải bằng cách sử dụng thử nghiệm nematode 72 giờ với tỷ lệ tử vong làm điểm kết thúc. Kết quả cho thấy rằng sự tương tác giữa các nước thải của một số ngành công nghiệp nhất định có thể làm tăng độ độc tính chung của nematode trong nước thải đầu vào và đầu ra của nhà máy xử lý nước thải. Xu hướng tử vong của nematode cho thấy mức độ độc tính tương đối cao trong nước thải vào WWTP từ các ngành công nghiệp góp phần. Độc tính đầu vào cao của WWTP có thể do tỷ lệ lưu lượng xả thải công nghiệp thay đổi, giải phóng các thành phần độc hại khác nhau trong nước thải, và các tương tác độc hại giữa các thành phần hóa học của nước thải công nghiệp. Việc đánh giá độc tính trong hệ thống xử lý có thể xác định được những vị trí mà các chiến lược phòng ngừa ô nhiễm có thể được thực hiện để giảm tổng độc tính tại điểm xả thải.
#Caenorhabditis elegans #độc tính nước thải #nhà máy xử lý nước thải #nematode #phòng ngừa ô nhiễm